Tên di sản : Nhà thờ họ Lê Xuân

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 3837/QĐ –UBND

Giới thiệu

 

Không gian kiến trúc: Theo đê sông Chu từ huyện lỵ Thọ Xuân đi khoảng chừng 3km theo hướng đông là đến làng Vực Thượng. Đây là một làng cổ ven sông mà cấu trúc xóm, ngõ được phân bố như những ô bàn cờ rất giống những làng cổ ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Toàn bộ làng Vực Thượng nằm dưới chân đê Sông Chu, ở đó các con đường đi vào làng được mở vuông góc với đê. Các con đường này song song với nhau được phân bố từ đầu làng đến cuối làng với chức năng ngăn cách giữa các xóm với nhau. Từ những con đường này, các ngõ lại được mở ra hai bên, tạo thành những dãy nhà quay mặt về hướng nam nhằm mục đích để hưởng gió mát, tránh gió lạnh và gió nóng.

Nhà cổ họ Lê Xuân cũng được chọn đặt ở vị trí trung tâm làng Vực Thượng và được bao bọc bởi những ngôi nhà cổ khác. Nhìn trên tổng thể thì đây là một làng quê sầm uất mà phía trước là cánh đồng trồng lúa màu của làng Vực Thượng, phía sau là đê sông Chu – một con đê vừa là đường giao thông nối miền xuôi và miền ngược, cũng là ranh giới ngăn cách hai vùng đất tả ngạn và hữu ngạn sông Chu.

Toàn bộ ngôi nhà nằm trên một khuôn viên đất có diện tích 248m2. Trên khuôn viên này gồm có vườn cảnh, sân, nhà thờ và một ngôi nhà ngang là nơi ở của bà Trịnh Thị Nhung - người con dâu của dòng họ, đồng thời cũng là người trực tiếp trông coi nhà thờ.

Vườn cây cảnh được bố trí trước nhà liền với sân gạch, tuy không rộng nhưng được chủ nhân của ngôi nhà trồng các loại cây rau thơm và một số loại cây ăn quả khác như khế, bưởi, nhãn...đã tạo nên không gian xanh với một phong vị tươi mát.

Liền kề với vườn cảnh là sân có diện tích 54m2 (7,3m x 7,4m). Toàn bộ sân được lát gạch bát, phía trước được xây tường hoa thấp để ngăn cắt giữa sân và vườn cảnh. Sự liền kề của sân và vườn cảnh đã tạo ra một không gian thoáng đãng trong tầm mắt.

Về kết cấu kiến trúc của ngôi nhà: Có mặt bằng kiến trúc 51,4m2, chiều dài 8,7m, chiều rộng lòng nhà 5m và chiều rộng của hiên nhà là 1,35m.

Kích thước từng gian (tính từ trái sang phải):

Gian 1: Dọc 5m, ngang 2,47m

Gian 2 (gian giữa): Dọc 5m, ngang 2,50m.

Gian 3: Dọc 5m, ngang 2,47m.

Chiều cao ngôi nhà

Cột cái: cao 3,5m

Cột con: cao 2, 8m

Chiều cao từ nóc (Thượng lương) đến mặt nền là 4,2m.

Khoảng cách giữa các hàng chân cột:

Từ tường hậu đến cột con là 0,50m

Từ cột con đến một cái: 0,95m

Từ Cột cái phía sau đến một cái phía trước: 3m

Từ cột cái ra hiên 1,35m.

Kết cấu của vì kèo: Nhà được cấu trúc 3 gian với 4 vì kèo gỗ. Tổng số cột là 8 cột cái và 8 cột quân. Nhà được mở 3 cửa ra vào với 3 chuông cửa bức bàn. Cửa cao: 1,6m; rộng 1,85m; riêng cửa giữa rộng 1,85m. Phía trên cửa là hệ thống xuân hoa. Mỗi một bức xuân hoa được trang trí bằng những bức ván mỏng được đóng khung ở phía ngoài, phía trong là những ô trống được trang trí bằng hệ thống con tiện (2 ô con tiện) với mục đích tạo nên sự mềm mại, vui mắt cũng như sự thoáng đãng và lưu thông không khí giữa trong nhà và ngoài sân.

Kết cấu chính của vì kèo là theo kiểu "chồng rường, kẻ bẩy" với 4 vì kèo. Cấu tạo của vì kèo ở đây được chia thành 2 nhóm:

Hai vì kèo hồi: Có cấu tạo giống nhau gồm hai cột cái cao lên tận sát mái và được bổ mộng để mộng của câu đầu chui vào. Hai cột cái này có tác dụng chịu lực cho toàn bộ vì kèo. Phía dưới câu đầu là quá giang (còn gọi là xà lòng) được ăn mộng từ đầu cột quân ở mái trước, ăn mộng vào khoảng giữa cột cái – chạy qua một cột cái nữa và ăn mộng vào đầu cột quân ở mái sau. Dưới hệ thống xà lòng này là một kẻ bẩy chạy ra tạo nên hiện ở mái trước và hiên ở mái sau. Phía trên, là hệ thống các trụ trốn đứng trên câu đầu gắn kết với các con rường làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải ở mái trước và mái sau. Ở phía dưới các con rường này được gắn lên hai cột trốn qua đấu vuông thót đáy. Hai cột trốn hình tròn đứng trên câu đầu cũng qua hai đấu vuông thót đáy.

Cuối cùng là một kẻ bẩy ăn mộng vào đầu cột con, mõm kẻ đỡ xà nách, đuôi kẻ được kê lên tường đốc ở phía sau, còn ở hồi trước để lộ trần (không có cột).

Hai vì kèo giữa: Có kết cấu theo kiểu "trụ trốn – kẻ chuyền – chồng rường). Quan sát trên một vì kèo ta thấy: Trên đỉnh là một xà nóc (còn gọi là thượng lương) được tỳ lực trên một đấu hình thuyền nằm dọc đỡ chỗ tiếp giáp nối của hai đầu thượng lương ở gian giữa và đầu cụt ở tường vỉ. Đấu hình thuyền này lại tỳ lực trên một đấu vuông. Đấu vuông này lại được nằm trên một con rường bụng lợn chạy ra hiên mái (ở mái trước và mái sau) và trên đầu của hai con rường này là nơi tỳ lực đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. Ở phía dưới của con rường này được gối lên hai cột trốn qua hai đấu vuông thót đáy. Hai cột trốn hình tròn đứng trên câu đầu cũng qua hai đấu vuông thót đáy. Phía ngoài hai cột trốn là hai kẻ cong lên phía trên được ăn mộng vào thân cột trốn ở chiều đứng và thân câu đầu ở chiều ngang. Hai kẻ này đỡ các ván nong dày có khoét lỗ hổng để làm chỗ đứng chân cho các hoành mái (đòn tay).

Ở bên dưới là quá giang. Quá giang này được ăn mộng trên hai đầu cột quân của mái trước và mái sau. Khoảng không gian giữa câu đầu và quá giang được cấu trúc là một cột cái ở mái sau cao sát mái và được bổ mộng để câu đầu ăn mộng vào. Còn ở mái trước lại là một trụ trốn đứng trên quá giang trên một đấu vuông thót đáy và đầu của trụ trốn này được bổ mộng để đỡ các câu đầu. Phía ngoài trụ trốn và cột cái của vì kèo là hai kẻ chuyền (tính từ câu đầu xuống) ăn mộng én qua đầu cột cái ở mái sau và trụ trốn ở mái trước rồi chạy xuống đầu cột quân. Tiếp theo từ đầu cột quân là một kẻ nữa nối dài xuống hiên mà ta vẫn thường gọi là kẻ chuyền. Ở trên các kẻ này là những ván nong cũng được khoét lỗ để làm chỗ đứng cho các hoành tải. Các kẻ này cũng cong lên phía trên để tạo nên sự khoẻ khoắn đỡ toàn bộ mái nhà.

Kết cấu cuối cùng là một bẩy cổ ngỗng từ cột hiên trong ăn mộng vào đầu cột hiên ngoài nằm dưới xà ngang của hiên. Các bẩy cổ ngỗng này có khả năng chịu lực cao. Vì vậy mà ở hiên sau đuôi của các kẻ này phải gối đầu trên tường đốc, còn ở hiên trước thì tạo thành các hàng cột hiên đỡ kẻ bẩy. Tuy vậy, do sự mở rộng hiên nhà, nên đã bỏ các hàng chân cột đỡ kẻ hiên.

Về nghệ thuật trang trí: Nhìn trên tổng thể, thì nghệ thuật trang trí trên bộ khung gỗ của ngôi nhà cổ họ Lê Xuân rất hài hoà. Hầu hết các con rường của 4 vì đều được chạm nổi hình lá cúc cách điệu. Những lá cúc này là loại cúc to bản có đủ sống lá, gân lá, mép lá hình răng cưa được tạo tác trên toàn bộ bề mặt của một con rường. Ở các kẻ bẩy lá cúc lại được chạm nhỏ tựa như một cánh hoa cúc nhỏ thường dùng điểm dọc thân các dây lượn hình sin. Các đấu thượng lương, đấu bát đỡ trụ trốn cũng đều được chạm khắc hình bông hoa cúc. Ở hai vì kèo hồi là 4 bức cốn được chạm khắc hình rồng, phượng trong vận mây theo chủ đề các mùa trong năm: Bức con thứ nhất chạm rồng, phượng trong cảnh vật mùa xuân, bức thứ hai chạm rồng, phượng trong cảnh vật mùa hạ, bức thứ 3 chạm rồng, phượng trong cảnh vật mùa thu, bức thứ 4 chạm rồng, phượng trong cảnh vật mùa đông. Chủ đề và mô típ này cũng thường thấy trong các ngôi đình làng và những đền thờ có tín ngưỡng thờ thần mang đậm phong cách dân gian.

Tóm lại: Với nghệ thuật và kiến trúc của nhà cổ họ Lê Xuân như vậy chứng tỏ nền nghệ thuật dân gian có một vị thế riêng trong đời sống tinh thần của người nông dân ngày xưa và có vai trò quan trọng trong dòng chảy của nghệ thuật dân tộc.

Các hiện vật trong di tích:

Đại tự: Phong lĩnh nhả ư, nghĩa là Đỉnh cao của gia phong là cốt cách của thanh nhã.

Câu đối gỗ:

        Kỳ, cừu, cảnh ngưỡng hà lượng dụ

      Thiên tắc đoan bằng tổ đức phần.

 Nghĩa là:

 Truyền thống cha ông cháu ngưỡng trông, sẽ đem lại điều phúc

Con cháu đời sau nhờ vào đức sáng của tổ tông

01 thống đá

01 ngai thờ và bài vị

01 lư hương đồng

01 bát hương cổ

02 ống hương

02 đài nước

01 mâm bồng

02 ống đứng sắc phong

02 hương án cổ

02 hạc thờ

02 cây đèn gỗ

01 bản gia phả chữ Hán soạn đời vua Tự Đức (1882).

 

Hình ảnh Nhà thờ họ Lê Xuân

Nhà thờ  họ Lê Xuân

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật